CỘNG ĐOÀN HUYNH ĐỆ: CHỨNG TÁ TIN MỪNG
Giuse Lê Nguyễn (X)
“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,
anh em được sống vui vầy bên nhau,
như dầu quý đổ trên đầu
xuống râu xuống cổ áo chầu A-ha-ron,
như sương từ đỉnh Khéc-môn
toả trên đồi núi Xi-on lan tràn,
nơi đây ân huệ CHÚA ban,
chính là sự sống chứa chan muôn đời” (Tv 133).
Quả thật, trong cuộc đời lữ thứ trần gian niềm hạnh phúc lớn lao nhất của con người là được sống cùng và sống với nhau; sống cho và sống vì nhau. Bởi lẽ, con người được tạo dựng theo cách không thể sống, phát triển và hoàn thiện mình trừ khi họ chân thành hiến mình cho tha nhân. Ngay từ khởi thủy, con người được Thiên Chúa tạo dựng để sống liên đới và hiệp thông với nhau. Vì thế, tự bản chất, con người chỉ có thể trở thành người cách toàn vẹn khi tương quan với người khác.
Đứng trước những biến chuyển, đổi thay của thời đại, con
người dường như đang phá vỡ đi các mối tương quan giữa mình với nhân loại. Con
người không còn muốn sống cùng và sống với nhau; sống cho và sống vì nhau. Thay
vào đó, họ tự cô lập và rút vào trong những quyền lợi của mình, họ tự xây lên
cho mình những bức tường ngăn cách với toàn thể tạo thành, họ biến mình thành
những ốc đảo và tại nơi đó không ai có thể đụng chạm tới được. Trước một thế giới
đang bị tổn thương do những chia rẽ, bất hòa, chiến tranh, xung đột, hận thù,…
Trước những đổ vỡ giữa các mối tương quan giữa con người với con người, thì hơn
bao giờ hết, những người sống đời thánh hiến được mời gọi xây dựng lại các mối
tương quan, “thêu dệt”, “lắp ghép” lại những mảnh đổ vỡ, rách nát của nhân loại
bằng đời sống huynh đệ hiệp thông và “làm cho con người thấy được vẻ đẹp của sự
hiệp thông huynh đệ và chỉ cho họ những nẻo đường cụ thể để đưa tới đó”[1]. Đặc
biệt, đối với các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) những nẻo đường này không gì
khác hơn là sống tình bác ái huynh đệ trong đời sống cộng đoàn.
Đời sống huynh đệ cộng đoàn – Dấu chỉ hiệp thông
“Đức Giêsu lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn.
Và các ông đến với Người. Người lập nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để
Người sai các ông đi rao giảng.” (Mc 3, 13-14)
Khởi đi từ lời mời gọi của Chúa Giêsu, chúng ta biết rằng để
làm nên một cộng đoàn huynh đệ hiệp nhất, yêu thương, chắc chắn không phải tự ý
muốn con người mà có nhưng được phát xuất từ ý muốn của Thiên Chúa. Thật vậy,
chính Thiên Chúa đã gọi đích danh và thánh hiến từng người một để họ sống hiệp
thông với chính Người, với anh em và để họ chia sẻ sứ mạng và cuộc sống của Người.
Qua đó, chúng ta thấy rằng cộng đoàn huynh đệ trước hết là
một hồng ân của Thiên Chúa. Vì thế, sự hiệp thông trong đời sống cộng đoàn
huynh đệ không phải là một nhóm người sống bên cạnh nhau, hay là một nhóm người
được quy tụ lại với nhau để phục vụ trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội,…
cộng đoàn huynh đệ cũng không phải là tập thể những người sát cánh cùng nhau để
bảo vệ sinh mạng cho nhau gọi là “cộng đoàn của những người đắm tàu trên một
chiếc bè”[2]. Nhưng cộng đoàn huynh đệ không gì khác hơn là một sự gắn kết giữa
con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Sự gắn kết này được đặt
trên nền tảng khuôn mẫu tuyệt hảo là cộng đoàn Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi lẽ, giữa
Ba Ngôi có một mối hiệp thông đặc biệt đến nỗi Ba Ngôi Vị khác nhau nhưng lại
không phân chia, không có Ngôi Vị nào hành động mà lại thiếu vắng sự tham dự
hành động của Ngôi Vị kia, không có gì là bí ẩn và tách rời trong tương quan
liên vị của Ba Ngôi. Vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8) mà tình yêu thì
không thể nào hiện hữu một mình và đơn độc như Chúa Cha trao ban chính mình và
tự bộc lộ một cách trọn vẹn nơi Ngôi Lời; Chúa Con đón nhận tất cả và không ngừng
đáp lại tình yêu của Chúa Cha; khi Chúa Cha và Chúa Con trao ban cho nhau thì
nhiệm xuất Chúa Thánh Thần. Dựa trên khuôn mẫu tuyệt hảo là cộng đoàn Thiên
Chúa Ba Ngôi, cộng đoàn sống đời thánh hiến được mời gọi ở lại trong tình yêu của
Ba Ngôi và trở nên dấu chỉ hiệp thông bằng đời sống hiệp thông của cộng đoàn
mình, mở ra cho những tương quan nhân loại và trao ban trọn vẹn trong tình yêu.
Đời sống huynh đệ cộng đoàn – Luật sống cốt yếu của các tu
sĩ DCCT
Hiến pháp số 21 của DCCT cho chúng ta thấy được tầm quan trọng
của đời sống cộng đoàn huynh đệ trong việc thực thi sứ mạng thừa sai của mỗi tu
sĩ DCCT: “Để chu toàn sứ mạng của mình trong Hội Thánh, các tu sĩ DCCT thực hiện
công việc thừa sai như là một cộng đoàn. Vì lẽ đời sống chung mang tính tông đồ
mở đường cách hiệu quả nhất cho đời sống đức ái mục vụ. Vì thế, luật sống cốt yếu
của các tu sĩ là: sống cộng đoàn và thực hiện công việc tông đồ ngang qua cộng
đoàn. Vì lí do này, khía cạnh cộng đoàn phải luôn được lưu tâm đến bất cứ khi
nào một công việc thừa sai được chấp nhận.” Như vậy, đời sống sứ mạng của mỗi
tu sĩ DCCT không bao giờ được tách biệt khỏi đời sống cộng đoàn huynh đệ.
Khởi đi từ tình yêu của Chúa Cứu Thế “ Không phải anh em đã
chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi,
sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em
xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em” (Ga 15, 16). Các tu
sĩ DCCT đáp trả tình yêu này bằng việc hiến mình cách đặc biệt cho Thiên Chúa
và cho hoạt vụ thừa sai (x. HP 1). Nhờ đó các tu sĩ DCCT sống chung với nhau và
làm nên một thân mình thừa sai duy nhất (x. HP 2).
Nhìn lại mẫu gương của cộng đoàn tiên khởi, chúng ta thấy
được mọi sinh hoạt của cộng đoàn đều xoay quanh trục Đức Kitô chết và sống lại.
Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh sử Luca đã thuật lại cho chúng ta thấy đời sống
sinh hoạt của các Tông Đồ sau khi được ánh sáng Phục sinh chiếu giãi và Thần
Khí Chúa ngự xuống. “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn hiệp
thông với nhau, siêng năng làm lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng.” (Cv 2,42)
“Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất
đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu.”(Cv 2, 44 – 45)
Ngang qua đời sống sinh hoạt của cộng đoàn tiên khởi, các tu sĩ DCCT cũng được
mời gọi làm cho đời sống của mình trở nên giống như các tông đồ - nghĩa là xoay
quanh trục Đức Kitô chết và sống lại. Như Hiến pháp số 22 của DCCT đã nhấn mạnh
rằng: “Toàn bộ mục đích của đời sống cộng đoàn nhằm giúp các tu sĩ, giống như
các tông đồ nhờ tinh thần hiệp thông huynh đệ chân thật, nối kết việc cầu nguyện
với bản thảo, lao động với khổ đau, thành công với thất bại, cũng như của cải vật
chất của họ để phục vụ Tin Mừng.” Như vậy, “cộng đoàn sẽ không thực sự hiện hữu
khi các thành viên chỉ đơn thuần sống chung với nhau; cộng đoàn còn đòi buộc việc
chia sẻ chân thành về phương diện nhân bản và tâm linh.” Vì thế, đời sống cộng
đoàn huynh đệ DCCT phải được bắt nguồn từ cộng đoàn Thiên Chúa Ba Ngôi được thể
hiện qua Mầu nhiệm chết và sống lại của Đức Kitô, vì đó là trung tâm và chóp đỉnh
trong việc xây dựng cộng đoàn huynh đệ và là dấu chỉ hiệp thông với tha nhân, đặc
biệt là với những người nghèo, những người bị bỏ rơi hơn cả.
Cộng đoàn huynh đệ - Men cho đời, ánh sáng cho trần gian
Đức Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhận định rằng: “Người thời
nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì
các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân”. Quả thật, để công cuộc loan báo Tin Mừng
trở nên hữu hiệu thì Lời loan báo Tin Mừng không chỉ là những lời giảng dạy
trên bục giảng mà còn bằng sự hiện diện huynh đệ âm thầm với lối sống dấn thân,
phục vụ, hiến mình cho tha nhân. Hiến pháp số 9 của DCCT cũng chỉ rõ: “Nếu hoàn
cảnh khiến họ có lúc không thể công bố Tin Mừng cách trực tiếp và tức thời, hoặc
không thể rao giảng Tin Mừng cách trọn vẹn, thì các thừa sai với sự kiên nhẫn
và sự thận trọng, nhưng đồng thời với hết lòng tin tưởng, phải làm chứng cho
lòng mến của Đức Kitô và cố hết sức làm cho mình trở nên người thân cận của mọi
người. Lòng mến này sẽ được biểu lộ bằng việc cầu nguyện, bằng việc chân thành
phục vụ tha nhân và bằng chứng tá của đời sống dưới mọi hình thức.”
Nhìn lại công cuộc loan báo Tin Mừng bằng sự hiện diện
huynh đệ của các tu sĩ DCCT, chúng ta không thể không nhắc đến NHÓM RA ĐI[3] gồm
có bốn người: Cha Antôn Vương Đình Tài, thầy Lêônard Hồ Văn Quân, hai thầy phó
tế là Giuse Trần Sĩ Tín và Phêrô Nguyễn Đức Mầu. Năm 1969, các ngài đặt chân đến
mảnh đất của người Jrai để Loan báo Tin Mừng cho người Jrai. Thế nhưng trong
cái giai đoạn khó khăn thiếu thốn đủ bề, khác nhau về văn hóa, ngôn ngữ và
chính trị đang diễn ra căng thẳng, tôn giáo bị đàn áp, cấm cách, bắt bớ khắp
nơi,… thì làm sao có thể loan báo Tin Mừng cách minh nhiên được, nhưng với sự dấn
thân cho Tin Mừng Cứu Độ các ngài đã ở giữa dân, sống với dân, học với dân và
làm với dân trong suốt 20 năm để loan báo Tin Mừng cho dân bằng sự hiện diện
huynh đệ âm thầm phục vụ, dấn thân, hiến mình hoàn toàn cho sứ vụ của các ngài.
Trong suốt 20 năm trải qua nhiều đau khổ, gian nan, thử thách, đối diện với cái
chết cận kề và chứng kiến cảnh nằm xuống nơi lòng đất lạnh lẽo giữa rừng của những
anh em trong dòng, các ngài vẫn không sờn lòng nản chí, hay thất vọng nhưng các
ngài vẫn tiếp tục sống chứng tá Tin Mừng bằng sự hiện diện huynh đệ với đời sống
phục vụ, tràn đầy tình yêu thương, niềm vui và niềm hy vọng để hạt giống Lời
luôn được lớn lên và trổ sinh trên mảnh đất J’rai.
Như vậy, để lời loan báo Tin Mừng trở nên hữu hiệu trong thời
đại ngày hôm nay, người rao giảng không phải chỉ giảng dạy cho người ta một thứ
học thuyết cao siêu hay một bài giáo lý hoa mỹ, mê hoặc lòng người mà chẳng đụng
chạm tới hay biến đổi tâm hồn người ta. Nhưng người rao giảng trước hết phải sống
đúng các giá trị Tin Mừng nghĩa là trở nên chứng tá của Tin Mừng bằng sự hiện
diện huynh đệ và bằng lối sống hiệp thông, yêu thương, phục vụ hết mọi người,
khi đó lời loan báo Tin Mừng mới thực sự được vang vọng, đụng chạm, và biến đổi
tâm hồn con người khắp nơi trên thế giới.
Con người ngày hôm nay đang sống trong một thế giới đang bị tổn thương, không an toàn và bất ổn do chiến tranh, nghèo đói, thất nghiệp, cùng với sự xuống cấp của các giá trị đạo đức, luân lý,… Trước thực tại đau thương của nhân loại, những người sống đời thánh hiến được mời gọi ở lại trong tình thương của Chúa và để Chúa sai đi như những người trợ giúp, những người đồng hành và những thừa tác viên trong công trình vĩ đại của ơn cứu chuộc (x. HP 2).
Bên cạnh đó, những người sống đời thánh hiến cũng được mời
gọi cách đặc biệt hơn nữa là trở nên những chuyên viên của sự hiệp thông[4] để
“thêu dệt”, “xây dựng” lại những mảnh rách nát, đổ vỡ trong mối tương quan giữa
con người với nhau. Điều này đòi hỏi những người sống đời thánh hiến phải RA
ĐI, ra đi khỏi chính mình, ra đi khỏi những cơ cấu đã bị xơ cứng, ra đi để đến
với người nghèo, những người bị bỏ rơi nơi các vùng ngoại biên, và ra đi để tìm
Chúa, tìm mình và tìm người.
Đối với các tu sĩ DCCT là “những thừa sai của niềm hy vọng
theo bước chân Chúa Cứu Thế” chúng ta cũng được mời gọi canh tân lại đời sống của
mình, canh tân lại tương quan huynh đệ hiệp thông trong đời sống cộng đoàn và
hơn bao giờ hết, chúng ta được mời gọi chấp nhận rủi ro, như những nhà thừa sai
mang tính ngôn sứ của hy vọng, hãy sẵn sàng ra đi đến nơi Thần Khí mời gọi, với
tầm nhìn về tạo thành và nhân loại được đổi mới theo hình ảnh của Chúa Giêsu, Đấng
Cứu Chuộc chúng ta.[5]
Trích nội san Đáp trả Tình Yêu
của lớp NICOLAS CHARNETSKY niên khóa 2023-2024
THIÊN CHÚA Ở CÙNG
Giuse Lê Nguyễn (X)
“Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi
chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương
chúng ta” (Rm 5,8).
Bước đi trong cuộc đời này, được “nhấn
chìm”, được “nung nấu” trong lề thói của thế gian. Có lẽ, đời bạn và đời tôi đều
bị “chảy” trong những khuôn mẫu mà thế gian quy hướng, để rồi trong những phút
buông lơi đời mình trong khoảng không vô định, trong những lần nổi trôi trên biển
đời, ta nhận ra cuộc đời mình chẳng có gì ngoài sự hổ lốn, lộn xộn như đống ve
chai đổ bể bị người ta vứt bỏ nơi góc sân vườn.
Trong hơn hai mươi năm cuộc đời dìm mình
trong thế gian, tôi cứ mải luẩn quẩn giữa biển đời với những thứ chóng qua chỉ
để kiếm tìm một thứ mang tên hạnh phúc, nhưng hạnh phúc của thế gian chỉ như giấc
mộng vàng, dễ dàng trôi tuột, tan biến tựa áng mây và thứ còn lại trong tôi là
một mớ đổ bể, lộn xộn, hổ lốn. Thế nhưng, chính trong cái sự lộn xộn, đổ bể ấy,
có một Đấng đã tự nguyện đi vào cuộc đời tôi, đụng chạm đến tôi, ôm lấy tôi và ở
cùng tôi mọi ngày cho đến tận thế.
Để nhận ra điều này, để gặp gỡ một Đấng
đang ở cùng tôi và để kinh nghiệm đích thân sự đụng chạm của Đấng ấy nơi cuộc đời
tôi thì không phải một ngày hay hai ngày, một tháng hay hai tháng là tôi có thể
“vỡ ra” được, nhưng đó là cả một hành trình thanh luyện, cởi bỏ con người cũ của
tôi, hầu tôi mặc lấy con người mới được tạo dựng theo hình ảnh Đức Kitô chịu
đóng đinh và sống lại từ cõi chết (x. HP 41).
Nhìn lại thời gian quý giá trong Tập viện,
tôi khám phá ra chính nơi đây tôi được Thiên Chúa tách riêng ra khỏi sự huyên
náo, xô bồ của thế gian để ở với Chúa trong sự cô tịch và để gắn kết mật thiết,
đối thoại thân tình với Người trong đời sống cầu nguyện. Cũng chính nơi đây,
tôi kinh nghiệm được sự trống rỗng, hư vô trong tôi giờ đây đã được đổ đầy
hương thơm dịu ngọt của Chúa. Được ở với Chúa và trong tương quan nghĩa thiết với
Chúa, được Thần Khí Chúa soi sáng, dẫn đường, nơi Tập viện này tôi đã gặp gỡ được
nguồn hạnh phúc đích thực và vĩnh hằng của đời tôi ấy là chính Chúa, là chính Đức
Kitô Nhập Thể, Chết, Sống lại. Người đang hiện hữu với tôi và trong tôi.
Trong năm Tập viện, tôi có cơ hội được
nhìn lại cuộc đời mình, được khám phá lại những hành trình mà tôi đã đi qua và
được “đào lại” những điều cũ kĩ của quá khứ mà tôi đã chôn sâu trong nấm mồ
lòng mình. Gọi là cơ hội, vì ngang qua từng biến cố, từng giai đoạn khác nhau của
cuộc đời, tôi thấy được tình yêu khôn dò khôn thấu mà Chúa đã dành cho tôi
trong kế hoạch từ ngàn đời của Người. Tuy nhiên, để trở về khám phá lại con người
thật của mình trong quá khứ, để “lôi lên” những vết thương mà tôi đã chôn kín trong
lòng, quả thật chưa bao giờ là điều dễ dàng, nhẹ nhàng với tôi và có lẽ với mỗi
người chúng ta. Bởi vì, con người là thụ tạo xác đất vật hèn, yếu đuối và bất
toàn nên khi đối diện với những thực tại không như ta mong ước hay khi đối diện
với những tổn thương, mất mát quá lớn, ta thường chọn cách trốn chạy và chôn đi
những điều làm ta tổn thương, để rồi ta tự an ủi, đánh lừa mình bằng sự bình an
không có thật.
Trong suốt năm Tập viện, được dìm mình
trong đời sống cầu nguyện, được soi mình dưới ánh sáng Lời Chúa, mỗi ngày được
“diện đối diện”, “mặt giáp mặt” với Chúa, tôi nhận ra những thứ mà trước kia
tôi chạy trốn, lẩn tránh thì giờ đây đang vây bủa lấy tôi, những thứ mà trước
kia tôi xây đắp lên mình để che giấu sự yếu đuối mục nát trong tôi thì giờ đây
bị rớt xuống và những thứ mà trước kia tôi chôn sâu trong nấm mồ lòng mình giờ
đây bị trồi lên. Quả thật, “không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời
Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng
ta trả lẽ” (Dt 4,13). Khi đối diện với một Thiên Chúa bé nhỏ, đơn sơ, rạng rỡ
nơi máng cỏ; khi đối diện với một Thiên Chúa thân mình bầm dập đầy những vết
tích trên thập giá và khi đối diện với một Thiên Chúa nghiền nát mình, bẻ mình
ra cho tôi nơi bàn thờ, tôi thấy mọi thứ trong ngoài tôi trở nên vỡ vụn và tôi
thấy mình trần trụi, nghèo hèn, yếu đuối và bất toàn trước một Thiên Chúa nhân
hậu và giàu lòng xót thương.
Một năm được ở lại trong tình thương của
Chúa, cùng với sự soi sáng của Lời và ngang qua việc đồng hành thiêng liêng với
cha Tập sư, tôi đã trải qua hết cung bậc cảm xúc này đến cung bậc cảm xúc khác.
Có những lúc bước đi trong đêm tối, tôi trở nên nghi ngờ chính tôi, chính Chúa
và con đường tôi đang đi. Có những đêm tôi thầm trách Chúa, đổ lỗi cho Chúa về
cuộc đời của tôi “Tại sao tôi đã không chết ngay trong lòng mẹ để mẹ tôi nên nấm
mồ chôn tôi, và lòng bà cưu mang tôi mãi mãi? Tôi đã lọt lòng mẹ để làm chi? Phải
chăng chỉ để thấy toàn gian khổ, buồn sầu, và thấy cuộc đời qua đi trong tủi hổ?”
(Gr 20,17-18). Thế nhưng đêm tối nào rồi cũng lụi tàn để nhường chỗ cho hừng
đông xuất hiện. Dù lâu hay mau, sớm hay muộn thì hừng đông chắc chắn sẽ xuất hiện
và ánh quang ngày mới sẽ chiếu soi xua tan đi bóng đêm u tối lạnh lẽo. Điều cần
thiết là phải can đảm đối diện với đêm tối trong sự tin tưởng, phó thác, cậy
trông hoàn toàn vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Kinh nghiệm được điều này,
tôi dần mở lòng ra với Chúa, đập bỏ nỗi nghi nan về Chúa, về con người của tôi
và về con đường mà Chúa mời gọi tôi bước theo.
Sống trong tâm tình biết ơn, phó thác, cậy
trông, tin tưởng hoàn toàn vào Chúa, tôi nhận ra một Đức Kitô hằng sống luôn ở
trong tôi, ở với tôi và Người không bao giờ bỏ rơi tôi. Dù tôi có xa lạc đến
đâu thì Người vẫn luôn ở đó, kêu gọi tôi, chờ mong tôi trở về với Người để Người
ôm lấy, vác tôi trên vai của Người vì danh Người là Tình Yêu. Một tình yêu
nhưng không; một tình yêu sẵn sàng chết cho người mình yêu; một tình yêu, yêu
cho đến cùng tận.
Kinh nghiệm được tình yêu vô bờ bến mà
Thiên Chúa dành cho tôi trong suốt những năm qua, giờ đây, tôi muốn dùng cuộc đời
của tôi để bước theo chân Chúa Cứu Thế trong Dòng Chúa Cứu Thế hầu loan báo Tin
Mừng cho người nghèo khó. Dù biết nẻo đường đi vào cuộc phiêu lưu trong tình
yêu với Thiên Chúa sẽ lắm chông gai, thử thách, đau khổ nhưng tôi luôn tin rằng
ơn của Chúa đủ cho tôi, vì sức mạnh của Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu
đuối của tôi (x. 2Cr 12,9). Hơn nữa, đời sống cộng đoàn huynh đệ cũng giúp tôi
vững vàng tiến bước. Qua một năm Tập viện, bằng những giờ chia sẻ chân thành, cầu
nguyện, học tập và làm việc chung, qua chính việc kết hợp mật thiết với Chúa
Kitô tôi cũng cảm nhận được sự hiệp thông chặt chẽ hơn với anh em mình. Từ đó,
tôi nhận ra mỗi người là một chi thể trong thân mình thừa sai Dòng Chúa Cứu Thế
được quy tụ lại theo nhiều cách khác nhau để thi hành sứ mạng của Chúa Kitô Cứu
Thế. Sau tất cả, tôi tin rằng dù tôi ở trong hoàn cảnh nào, tình trạng nào thì
Chúa vẫn ở với tôi, trong tôi, trong anh em tôi và trong chính những người mà
tôi phục vụ vì Người là Đấng Emmanuel.
Trích nội san "ĐÁP TRẢ TÌNH
YÊU"
của lớp NICOLAS CHARNETSKY niên khóa
2023 - 2024
Bước theo Đức Kitô – Sequela Christi – là một lời mời gọi mà mỗi người Kitô hữu sẽ dành cả cuộc đời để đáp trả, bởi Thiên Chúa đã yêu thương và ban Con của Người làm Đấng Cứu Độ nhân loại (x. 1Ga 4,10.) Cách riêng, đối với ơn gọi sống đời dâng hiến, các tu sĩ sẽ sống triệt để hơn nữa lời mời gọi ấy qua đời sống chứng nhân, qua các lời khuyên Phúc Âm,… Mặc cho cuộc sống nhiều khó khăn, nhưng chắc chắn với những ai luôn trung thành trong ơn gọi, họ sẽ tìm thấy “Hạnh phúc khi theo Giêsu.” Đó cũng là chủ đề của ngày hội ơn gọi được tổ chức tại Giáo xứ Chánh tòa Xuân Lộc, giáo hạt Long Khánh, Giáo phận Xuân Lộc vào ngày 21/04/2024.
Đáp lại lời mời gọi của Giáo phận, anh em Học viện thánh
Anphongsô, Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) đã đến để tham dự ngày hội ơn gọi. Anh em DCCT
hiện diện tại Giáo phận với ước mong nói lên phần nào sứ vụ loan báo Tin Mừng
cho người nghèo trong Hội thánh mà suốt gần 300 năm qua Hội dòng vẫn miệt mài
thực thi. Đặc biệt, năm 2025 là cột mốc kỷ niệm 100 năm DCCT hiện diện tại Việt Nam. Bên cạnh đó, đây cũng là dịp để các mầm non ơn gọi của Giáo phận biết
hơn về linh đạo, đặc sủng của nhà Dòng.
![]() |
"Hạnh phúc khi theo Giêsu" - Chủ đề của ngày Ơn gọi năm nay |
Ngoài DCCT, tham dự ngày hội ơn gọi năm nay còn có sự hiện diện của quý thầy Đại Chủng Viện Xuân Lộc và 18 Dòng tu, Tu đoàn, Tu hội và Hiệp hội khác nhau: Dòng Vinh Sơn, Tu Đoàn Giáo Sĩ Nhà Chúa, Dòng Don Bosco, Dòng Cát Minh Chân Trần, Dòng Đaminh, Dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc, Dòng Thánh Tâm Huế, Dòng Trợ Thế Gioan Thiên Chúa, Dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu Linh Mục, Hội Thừa Sai Thánh Luca Hwang-Soktu-Hàn Quốc, Dòng Nữ Tỳ Thánh Thể, Dòng Mến Thánh Giá Xuân Lộc, Dòng Đức Bà, Dòng Mến Thánh Giá Tân Việt, Hiệp Hội Nữ Thừa Sai Tình Thương, Dòng Đaminh Monteils, Dòng Đaminh Tam Hiệp, Dòng Đaminh Thánh Tâm, Dòng Nữ Môn Đệ Chúa Giêsu Thánh Thể.
![]() |
Đông đảo các em thiếu nhi đã về tham dự ngày hội ngộ ơn gọi |
![]() |
Nhiều Dòng tu nam, nữ cũng quy tụ về đây |
Từ sớm, các bạn thiếu nhi trong Giáo phận đã quy tụ đông đảo tại khuôn viên Giáo xứ Chánh tòa Xuân Lộc. Đúng 8h00, cha Quản hạt có lời chào
đón tất cả mọi người và khai mạc ngày hội ơn gọi 2024 với chủ đề “Hạnh phúc khi theo Giêsu.” Tiếp đó, quý
cha trong ban tổ chức cũng gửi đến các em thiếu nhi cũng như toàn thể mọi người
tâm tình của Đức Giám mục Giáo phận trong ngày ơn gọi năm nay.
8h45, ngày cỗ võ ơn gọi tiếp tục với chương trình giới thiệu
về ơn gọi Giáo phận, ơn gọi Dòng tu nam, ơn gọi Dòng tu nữ cho các em thiếu
nhi. Đồng thời, các em thiếu nhi tham dự cũng được quý thầy, quý sơ giải đáp những
câu hỏi về liên quan đến đời sống thánh hiến.
![]() |
Dòng Chúa Cứu Thế hướng đến kỷ niệm 100 năm hiện diện tại Việt Nam |
Đỉnh cao của ngày hội đó là thánh lễ Chúa Nhật IV Phục sinh – lễ Chúa Chiên Lành – được cử hành vào lúc 10h40. Thánh lễ diễn ra trong bầu khí trang nghiêm, sốt sắng. Có lẽ, Thánh lễ hôm nay mang một ý nghĩa rất lớn đối với các em thiếu nhi khi các em hiểu rằng, ưu tư về ơn gọi là một trong những ưu tư không chỉ là của quý cha, quý thầy, quý sơ đặc trách ơn gọi, nhưng đó cũng là ưu tư, khao khát của chính Chúa Giêsu – vị Mục Tử nhân lành – luôn sẵn sàng hy sính tính mạng vì đoàn chiên. Ước mong sẽ có những tiếng thưa “xin vâng” đến từ những ơn gọi nhỏ mang trong mình sự mạnh mẽ của đức tin, phấn khởi trong đức cậy, sốt sắng nơi lòng mến và trung tín trong đời cầu nguyện. Nhờ đó, mọi người sẽ nhận ra ơn cứu độ.
Sau Thánh lễ, mọi người cùng dùng với nhau bữa cơm trưa thân mật. Ngày hội ngộ ơn gọi Giáo phận Xuân lộc khép lại trong sự vui tươi và bình an.
Ban truyền thông Học viện
thánh Anphongsô
Sáng Chúa nhật ngày 21/04/2024, tại Giáo xứ Trà Cổ, Giáo hạt Phú Thịnh, Giáo phận Xuân Lộc đã diễn ra ngày hội Ơn gọi với chủ đề: “Hạnh phúc khi theo Giêsu.” Hiện diện tại đây có quý cha Hạt trưởng, quý cha đặc trách ơn gọi, quý thầy Đại Chủng Viện Xuân Lộc, quý thầy Dòng Chúa Cứu Thế, quý sơ Tôi tớ Lời Chúa, quý sơ Dòng Nữ Môn Đệ Chúa Giêsu Thánh Thể cùng với hơn 375 em Dự tu đến từ 26 Giáo xứ thuộc Hạt Phú Thịnh.
Có thể
nói, Chúa Nhật IV Phục Sinh – Lễ Chúa Chiên Lành mang đến một không khí thật
vui tươi, bình an, giống như một làn gió mát của Thần Khí thổi tràn trên những
tâm hồn trẻ thơ đang khao khát tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa. Thần Khí của Đức
Kitô Phục Sinh, Ngài đến để cho chiên được sống và sống dồi dào (x.Ga 10,10), chính Ngài đã thúc đẩy những
bước chân thừa sai, đang phấn khởi trên hành trình quảng bá ơn gọi.
Hoà chung không khí của ngày quốc tế ơn gọi, những thừa sai
Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) quy tụ tại giáo xứ Hoà Nghĩa, giáo hạt Cam Lâm, giáo
phận Nha Trang, nơi gần 1000 em thiếu nhi đang tập trung về để sinh hoạt và tìm
hiểu các Dòng tu. Những đoàn người đầy phấn chấn, hân hoan và trái tim đầy nhiệt
huyết của tuổi trẻ đã làm dịu đi cơn nóng bức mùa hè nơi dải đất miền Trung nắng
gió.
Quy tụ
trong ngôi thánh đường Hoà Nghĩa, các em được lắng nghe Tin Mừng và bài chia sẻ
của Cha Micae Lê Nguyễn Hoài Vũ – Giáo sư Đại Chủng viện Sao Biển – với chủ đề
“Tiếng gọi Samuel.” Với chất giọng truyền cảm và vui tươi, cha đã gợi
ý các em nhận ra tiếng Chúa mời gọi dấn bước trên đường tận hiến.
![]() |
Quý cha và Anh Em Học viện thánh Anphongsô DCCT |
Sau giờ
giải lao và cùng làm quen với nhau, các em trở lại thánh đường để lắng nghe các
Dòng cổ võ ơn gọi. Các anh em Dòng Chúa Cứu Thế, dưới sự hướng dẫn của Cha phó
bề trên cộng đoàn Nha Trang - Cha Antôn Nguyễn Tấn Hùng C.Ss.R. – đã xuất hiện
trong bộ tu phục ấn tượng. Các em chú ý theo dõi đoạn video về chương trình đào
tạo trong Dòng Chúa Cứu Thế và háo hức nhận lấy tờ thông tin cũng như ảnh Đức Mẹ
Hằng Cứu Giúp. Bằng tâm tình vui tươi, các anh em DCCT đã gửi đến các em bài ca
“Hành khúc Cứu thế” thể hiện niềm
hăng say phấn khởi khi theo bước chân thầy chí thánh Giêsu. Tiếp sau đó là phần
giới thiệu được dàn dựng công phu và duyên dáng của quý sơ Dòng Mến Thánh Giá
Nha Trang. Sau phần giới thiệu các Hội dòng, Thánh lễ Chúa Chiên Lành được cử hành
trong tâm tình trang nghiêm sốt sắng của toàn thể mọi người.
Nguyện xin Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người, cách riêng là các em thiếu nhi của Giáo xứ những ngày bình an và ước mong những gì Ngài gieo vào lòng các em sớm nảy nở, lớn mạnh, hầu có thể trổ sinh nhiều bông hạt cho Giáo Hội tại Việt Nam. Ngày lễ Chúa Chiên Lành, xin cho chúng ta luôn cảm nhận được tình yêu Mục tử của Ngài.
Ban truyền thông Học viện thánh
Anphongsô
Lúc 07h30,
Chúa nhật IV Phục Sinh – lễ Chúa Chiên Lành (21/04/2024), cha Chánh xứ Giáo xứ
Dầu Tiếng đã tổ chức ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ tại giáo xứ Dầu
Tiếng – giáo phận Phú Cường. Bên cạnh đó còn có sự hiện diện của quý cha, quý
thầy, anh em Dự tu Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT), quý sơ Dòng Mến Thánh Giá Tân Việt,
quý sơ Dòng Thánh Phaolô thành Chartres và khoảng 200 em thiếu nhi tham dự
Thánh lễ cầu nguyện cho ơn gọi đời sống thánh hiến.
“CÙNG THAM GIA VÀO ƠN GỌI THEO ĐỨC KITÔ” là chủ đề của ngày hội ngộ ơn gọi lần thứ IV, được tổ chức tại Giáo xứ Thanh Đa, thuộc Tổng Giáo phận Sài Gòn. Ngày hội ơn gọi năm nay được diễn ra trong hai ngày 20-21/4/2024.
Joseph Anh Nam
Đồng hành cùng Đức Kitô là ở lại trong tình thương của Ngài
và theo thật sát bước chân của Đấng Cứu Thế ở mọi nơi Ngài hiện diện.
“Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy
bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra
Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau:“Dọc đường, khi Người
nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng
cháy lên sao?” (Lc 24,30-32).
Trong sự bừng cháy của con tim rộng mở lắng
nghe Lời và sốt sắng tham dự bẻ bánh, hai môn đệ trên đường về Emmau đã kinh
nghiệm được Đấng Phục Sinh và nhận ra người lữ khách đã đồng hành với họ chính
là Đức Kitô. Sự đụng chạm cụ thể ấy đã biến đổi họ từ những con người buồn bã,
thất vọng trở nên những chứng nhân đầy hy vọng và tràn trề niềm hân hoan. Những
bước chân chậm chạp, nặng nề bỗng trở thành những bước chạy rộn rã! Từ đây, họ
ý thức sứ mạng của người môn đệ, mặc cho màn đêm đã phủ khắp không gian, ngay lập
tức, họ lên đường trở lại Giêrusalem để loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả những
ai là môn đệ Đức Giêsu đều được mời gọi tiếp nối sự hiện diện của Ngài trên trần
gian và cùng lên đường với Ngài. Cùng Chúa, họ đến với mọi người, đi vào giữa
đêm đen của thế gian và làm bừng lên ánh quang vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Thời gian
quý giá trong Tập Viện là cuộc mở đầu cho đời tu sĩ – tông đồ Chúa Cứu Thế, nơi
đó, chúng tôi kinh nghiệm một cách cụ thể sự đồng hành của Đức Kitô. Cùng với vị
Tập sư, trong đồng hành thiêng liêng, chúng tôi nhận ra sự hiện diện của Chúa
qua khung cảnh những cuộc đối thoại cởi mở và kiên nhẫn, bầu khí của cầu nguyện
và phân định. Nhờ đó, chúng tôi nhận biết ngày càng sâu sắc hơn gương mặt của
Thiên Chúa tình yêu, một tình yêu cá vị và trung thành. Một Thiên Chúa mà bây
lâu chúng tôi ngỡ rằng Ngài ở nơi cao xa, trong thánh điện hay ẩn hiện ở đâu đó
trong khoảng mênh mông vô định của trời đất này. Nhưng không, Ngài ở rất gần,
ngay trong chính chúng ta, tận nơi sâu thẳm nhất của lòng người. Chính biến cố
Nhập Thể đã mang đến cho nhân loại Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Đấng đã
trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận con người, ngoại trừ tội lỗi, để cứu
chúng ta (x. Pl 2,7tt). Việc cử hành mừng biến cố Nhập Thể hàng tháng trong Tập
Viện theo truyền thống Nhà Dòng đã liên tục nhắc nhở chúng tôi về sự gần gũi của
Thiên Chúa – Đấng Emmanuel.
Trong đồng
hành thiêng liêng, nhờ sự hướng dẫn của vị Tập sư, đồng thời cầu nguyện và suy
gẫm Lời Chúa, chúng tôi nhận ra sự tăm tối và hỗn độn của cái tôi vốn bị nhận
chìm trong thế gian. Nó trở nên những rào cản to lớn khiến chúng tôi khó có thể
sống mối tương quan con cái đối với Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị
em. Trong cái nhìn quy ngã và ích kỷ, chúng tôi đã xây nên những bức tường kiên
cố, ngăn cách chính mình với tha nhân. Những méo mó của các động cơ khiến con
đường trở nên quanh co, gập ghềnh. Và giờ đây, Lời Chúa như ánh sáng dọi
vào nơi tối tăm, mời gọi chúng tôi sửa lại lối quanh co, những khúc gập ghềnh
(x. Lc 3,4-6). Chúng tôi phải
phá đổ “bức tường” cố hữu ấy để chẳng còn “hòn đá nào trên hòn đá nào” hầu có
thể được xây dựng lại trên nền đá tảng vững bền là chính Đức Kitô. Các giá trị
sống đều được nhìn dưới ánh sáng Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu. Như thế, chúng
tôi mặc lấy tâm tình và kinh nghiệm của vị Tông đồ dân ngoại, là xem mọi thứ
như rác rến so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu và Tin Mừng của
Ngài (x. Pl 3, 8). Đó cũng là điều mà Hiến pháp Dòng Chúa Cứu Thế, số 41 kêu gọi:
“Các tu sĩ phải hết sức lưu tâm đến việc mặc lấy con người
mới được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại từ cõi
chết, hầu thanh luyện động cơ của mình trong việc phán đoán và hành động. Việc
hoán cải tâm hồn và canh tân lòng trí không ngừng phải là nét đặc thù của toàn
bộ đời sống thường nhật của họ.”
Chẳng dễ
dàng chút nào! Quả thật, tất cả chúng tôi đã trải qua nhiều cung bậc cảm xúc,
nhiều nỗi nghi nan tưởng chừng như đã có thể dừng lại! Nhưng cuộc “trở mình”
nào cũng thế, đau đớn như là điều tất yếu để được sinh ra một lần nữa, như Đức
Giêsu đã nói với các môn đệ: “Khi sinh
con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình nhưng sinh con rồi thì không còn
nhớ đến cơn gian nan nữa bởi được chứa chan niềm vui vì một con người đã sinh
ra trong thế gian” (Ga 16,21). Và Chúa giải thích thêm: “Bây giờ anh em lo buồn nhưng Thầy sẽ gặp lại
anh em, lòng anh em sẽ vui mừng và niềm vui của anh em không ai lấy mất được”
(Ga 16,22). Quả thế, như một bệnh nhân mắc một thứ ung nhọt độc dữ cần phải chấp
nhận để cho vị lương y “cạo xương chữa thuốc”[1]. Để
có thể chữa trị tận căn, phải chấp nhận một thứ nứt nẻ, đau đớn nào đó, sự đau
đớn không hề được “gây mê” trước! Chẳng ai muốn khơi lại hay đụng chạm vào những
tổn thương trong quá khứ còn tồn đọng nơi tâm lý hay thể lý, nhưng đây là lúc cần
phải có bản lĩnh của bậc nam nhi. Vậy hãy cởi mở, chân thật, khiêm hạ và đơn
sơ, cùng với vị Tập sư – lương y của Chúa, khám phá và chỉ ra những “triệu chứng”,
hậu quả và tình trạng khốn cùng của “căn bệnh”, can đảm đi vào tiến trình chữa
lành. Và rồi niềm vui của tâm hồn tự do sẽ đến và ngọt ngào hơn mọi đắng cay ta
đã nếm trải trong quá khứ, ta sẽ nhìn quá khứ với lòng biết ơn, sẽ thấy được
giá trị của mọi biến cố ta đã, đang và sẽ đối diện. Quả thật, Lời Chúa ngang
qua việc đồng hành thiêng liêng và cầu nguyện không ngừng trước Thánh Thể trở
nên phương dược chữa lành diệu kỳ. Từ đây, ta biết cảm nhận và sống tâm tình tạ
ơn đối với Thiên Chúa và mọi người, hơn những ngày qua ta đã sợ hãi, lẩn trốn.
Nhìn lại
hành trình đã qua, chúng tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác trước tình
yêu Thiên Chúa. Chúng tôi được đối diện với khoảnh khắc “vỡ ra” như chú gà con
chọc thủng vỏ trứng để đón ánh sáng, ra khỏi sự chật chội của cái tôi để sống đời
sống mới trong Thần Khí. Sự “vỡ ra” ấy làm chúng tôi nhận chân giây phút gặp gỡ
Đấng Tuyệt Mỹ! Ngài đã đi vào cuộc sống trần gian, đi vào chính cuộc đời mỗi
chúng tôi cách lạ lùng. Nơi đó, chúng tôi bừng nở một niềm vui nội tâm khó diễn
đạt thành lời, nhưng chân thật, sung sướng đến phát khóc. Đức Giêsu Kitô làm tất
cả vì yêu thương chúng tôi, Ngài đã ở bên chúng tôi từ lâu mà chúng tôi chẳng
hay biết, chúng tôi đã thờ ơ với Ngài quá lâu. Và giờ đây, một cách cá vị, Ngài
gần chúng tôi hơn bao giờ hết, chúng tôi được hạnh phúc sống quyền làm con, làm
công dân Nước Trời, sống giá trị Tin Mừng một cách có ý thức hơn những ngày
qua. Xin được mượn tâm tình của thánh Augustino đã thốt lên trong “tự thuật” của
ngài rằng:
“Con đã yêu Chúa quá muộn màng, ôi! Đấng
Tuyệt Mỹ, rất cổ kính nhưng cũng rất tươi mới. Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ngài đã ở trong con mà con lại ở một thế giới ngoài bản thân con. Ngài đã gọi
con, Ngài đã than khóc vì con, Ngài đã mở tai con, Ngài đã chiếu sáng trên con,
ánh sáng của Ngài bao phủ lấy con, Ngài đã cho con thoát khỏi sự mù lòa. Ngài đổ
đầy hương thơm của Ngài trên con, con đã nín thở, nhưng giờ đây con được ngửi
hương thơm ngọt ngào của Ngài. Con được cảm nếm Ngài và giờ đây con đói khát được
ở trong Ngài. Ngài chạm đến con và con được ngập chìm trong tình yêu và bình an
của Ngài.”[2]
Thật kỳ diệu khi một ngày chúng tôi biết được
rằng Chúa Kitô gọi chúng tôi cất bước theo Ngài, ở lại trong Ngài, sống với
Ngài và cùng Ngài lên đường làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Không nơi đâu có
thể cảm nghiệm rõ và sống động điều ấy cho bằng ở trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Đấy
chính là điểm hẹn lý tưởng cùng Giêsu sau những lần đồng hành, lao động, học tập
hay bất cứ thời khắc nào trong ngày. Ngài luôn ở đó cách chắc chắn để ngỏ lời,
nâng đỡ, thêm sức mạnh và củng cố lòng tin cho tất cả chúng ta: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ” (Mt
14,27).
Trung thành với tiến trình đồng hành thiêng
liêng, chúng tôi được lớn lên về nhiều phương diện. Giờ cầu nguyện trở nên chân
thực và đúng nghĩa hơn trong sự nhận biết sâu xa hơn về tình Cha yêu thương con
cái; lòng khao khát tìm kiếm và thực thi thánh ý; sự tự do thanh khiết của trái
tim và niềm vui đơn sơ phó thác cho sự quan phòng của Ngài. Ý thức về niềm hạnh
phúc được trở về và ở lại với Chúa Giêsu, giờ là lúc chúng tôi được Ngài sai đi
“như những người trợ giúp, những người đồng hành và những thừa tác viên của
Chúa Giêsu Kitô trong công trình vĩ đại của ơn cứu chuộc” (HP 2). Như thế,
chúng tôi được Tổng Công Hội XXVI của Nhà Dòng mời gọi: “Hãy can đảm lên! Hãy
nhớ rằng, chính Chúa Cứu Thế là Đấng đi bên cạnh chúng ta, và là Đấng sai chúng
ta đi với tư cách là những thừa sai mang tính ngôn sứ của hy vọng!”[3]
Ngẫm lại
những gì đã qua, chúng tôi đã thốt lên như hai môn đệ trên đường về Emmau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải
thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc
24,32). Đúng thế, lòng chúng tôi đã bừng
cháy trong giây phút nhận ra Đấng Phục Sinh đã, đang và hằng luôn đồng hành với
chúng tôi, giờ đây, chúng tôi hạnh phúc và “vui
sướng lên đường như tráng sĩ” (Tv 19,6). Cùng với Đức Kitô, chúng tôi đi
vào đời, đồng hành với những thân phận nghèo khổ, tất bạt, những tâm hồn tan
nát và mất đi niềm hy vọng, để nói với họ rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả
chúng ta! Chúng tôi nhận ra mình được yêu vô hạn, yêu vô điều kiện và tình yêu ấy
thôi thúc chúng tôi đáp nghĩa ân tình, bởi vì “nơi Đức Giêsu và đặc biệt qua mầu
nhiệm chết và sống lại, người tu tìm gặp sinh lực siêu việt Nước Trời và biến cố
cánh chung của ân huệ Thiên Chúa”[4]. Chúng tôi đáp trả lời mời gọi hiến thân không nhắm mục đích tìm sự
thánh thiện cho riêng mình nhưng nhờ ơn Thánh Thần trợ lực, chúng tôi nỗ lực đạt
tới sự hiến thân trọn vẹn, qua Đức Kitô, chúng tôi nhắm đến việc trở nên lời
đáp trả cho Thiên Chúa – Đấng đã yêu thương chúng tôi trước (x. HP 56). Đồng thời,
chúng tôi tham dự vào sự bỏ mình của Đấng chịu đóng đinh, toàn tâm toàn hiến
cho sự sống trần gian (x. HP 51). Xin cảm tạ tình yêu Thiên Chúa, tri ân Mẹ Nhà
Dòng cùng những vị đồng hành đầy kiên nhẫn là lòng bác ái mục tử.
Đức Kitô không những đồng hành cách cá
vị với từng người, Ngài còn hiện diện cụ thể và sống động trong bầu khí huynh đệ
cộng đoàn, đồng một trật, tất cả đều được mời gọi cùng nhau lên đường với Đức
Kitô. Quả thế, khi được quy tụ bên nhau trong bầu khí Tập Viện, chúng tôi ý thức
rõ hơn về ơn kêu gọi: “Rồi Người lên núi
và gọi đến với Người những kẻ Người muốn” (Mc 3,13). Chúng tôi có mặt ở đây
hoàn toàn là do ý muốn của Thiên Chúa, cho dẫu tất cả đều là tội nhân thì ở mức
độ sâu hơn, chúng tôi đã được tuyển chọn, được cứu chuộc và quy tụ trong Đức
Kitô (x. HP 7). Chính trong cảm thức ấy, chúng tôi khám phá ra sự đồng hành kỳ
diệu của Đấng Phục Sinh, được Ngài củng cố niềm tin như các tông đồ năm xưa tại
nhà Tiệc ly. Chúng tôi đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác về người anh
em, về ân sủng Thiên Chúa hoạt động nơi anh em, từ đó nảy sinh một đoàn ngũ có
Chúa ở cùng và đồng tạ ơn tình yêu Thiên Chúa. Khi cùng nhau ở lại trong Đức
Kitô như lời Ngài mời gọi: “Anh em hãy ở
lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9), chúng tôi được sai đi như một
đoàn ngũ thừa sai duy nhất, hiến thân cho sứ mạng như một tập thể sống động (x.
HP 2). Trên hành trình thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng, tất cả đều không đơn
độc, nhưng luôn có nhau, có Đức Kitô làm trung tâm và hiệp bước cùng nhau làm
chứng cho sự hiện diện hằng sống của Thiên Chúa.
Hiến pháp Dòng Chúa Cứu Thế, số 7, chỉ
ra: “Các tu sĩ cố gắng tìm gặp Chúa tại
những nơi Ngài vẫn hiện diện và hoạt động theo cách thế nhiệm mầu của Ngài”. Mang
theo bầu khí gặp gỡ Đức Kitô, có Đức Kitô đồng hành, chúng tôi đã có được những
kinh nghiệm cụ thể và đáng nhớ khi có cơ hội thăm viếng, gặp gỡ người nghèo, bệnh
nhân trong các hoạt vụ tông đồ. Nơi những anh chị em sắc tộc Vân Kiều tại Khe
Sanh hay những hộ gia đình cùng khốn, các bệnh nhân nan y… chúng tôi nhận ra
gương mặt của Đấng chịu đóng đinh. Chính Ngài vẫn còn chịu thương tích nơi sự
thống khổ của những kiếp người nhỏ bé nghèo hèn, bị lãng quên. Ngài tiếp tục Nhập
Thể, ở giữa nhân loại, chung chia kiếp sống và đồng hóa chính mình với họ (x. HP
4). Nơi họ, chúng tôi thấy được lý do hiện diện của Dòng Chúa Cứu Thế, chúng
tôi thấy rõ sứ mạng của người môn đệ Chúa Kitô. Ngài mời gọi chúng tôi ở chung
quanh Ngài, không chỉ là nơi nhà nguyện nhưng còn là ở giữa người nghèo như một
đầy tớ khiêm tốn và can trường của Tin Mừng (x. HP 6) để rao truyền Lời hằng sống
và ơn cứu chuộc cho họ. Chính nơi họ, chúng tôi thấy được diệu cảm từ lòng chạnh
thương của Đấng Sáng Lập Dòng. Khi an ủi các bệnh nhân, chúng tôi liên tưởng đến
những hoạt động tông đồ của Cha thánh tại bệnh viện Bất khả trị, sự cảm thông,
liên đới của Cha thánh luôn là tấm gương sáng cho chúng tôi. Lúc tận mắt chứng
kiến cuộc sống cơ cực, tất bạt của anh chị em sắc tộc Vân Kiều, chúng tôi cảm
nhận được diệu cảm và khát khao của Cha thánh về sự hiện diện của một Hội Dòng
thừa sai ở giữa những lớp dân bị bỏ rơi hơn cả nơi miền núi cao hẻo lánh Scala.
Chúng tôi được mời gọi mặc lấy tâm tình của Đức Kitô, ngang qua diệu cảm của
Cha thánh Anphongsô nhờ Thần Khí soi dẫn, hầu có thể trở nên những chứng nhân sống
động của niềm hy vọng cho thế giới hôm nay.
Đồng hành cùng Đức Kitô là ở lại trong tình thương của Ngài
và theo thật sát bước chân của Đấng Cứu Thế ở mọi nơi Ngài hiện diện. Chúng tôi
đã kinh nghiệm thấy Ngài trong cầu nguyện, trong đồng hành thiêng liêng, trong
bầu khí huynh đệ cộng đoàn và trong công việc tông đồ bên cạnh những người
nghèo và bị bỏ rơi nhất. Đó là ân huệ tuyệt vời, là quà tặng của tình yêu Thiên
Chúa, nhưng chúng tôi ý thức rõ, mình cũng chỉ là “bình sành, lọ đất” (x. 2 Cr
4,7), những con người mỏng giòn yếu đuối! Vì thế chúng tôi được mời gọi phó
thác, hoán cải tâm hồn và canh tân lòng trí không ngừng (x. HP 41), đồng thời mở
lòng mình ra, dễ dàng thuần phục đối với Chúa Thánh Thần (x. HP 25) để Ngài tự
do sử dụng chúng tôi như khí cụ bình an của Chúa. Chúng tôi có một mẫu gương
tuyệt vời là Đức Maria. Mẹ đã tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa và
trung kiên dõi theo Con Mẹ trên mọi nẻo đường, đồng hành với Chúa cho đến tận đỉnh
đồi Calvê, ở đó Chúa trao phó Mẹ cho chúng tôi và chúng tôi cho Mẹ (x. Ga
19,25-27). Luôn kiên trì và trung tín dẫu đang bước trên đường thập giá là minh
chứng cho lòng yêu mến và trung thành thực sự của người môn đệ Chúa Cứu Thế,
như sứ điệp của Tổng Công Hội XXVI mời gọi:
“Anh chị em thân mến, hôm nay, có lẽ hơn bao giờ hết, chúng
ta được mời gọi chấp nhận rủi ro, như những nhà thừa sai mang tính ngôn sứ của
hy vọng, hãy sẵn sàng ra đi đến nơi Thần Khí mời gọi, với tầm nhìn về tạo thành
và nhân loại được đổi mới theo hình ảnh Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc của chúng
ta. Được Mẹ Hằng Cứu Giúp và tất cả tổ tiên của chúng ta trong gia đình Dòng
Chúa Cứu Thế đồng hành, “chúng ta đừng để mất dấu Chúa Giêsu” (Hr 12, 2). Chúng
ta hãy cùng nhau tiến lên trong hy vọng đầy can đảm!”[5]
Lắng nghe lời giáo huấn của Đức Thánh
Cha Phanxicô, chúng tôi thêm xác tín rằng: “Thiên Chúa không ở đâu xa, Người
luôn ở cùng chúng ta, đến nỗi nhiều lần gõ cửa trái tim chúng ta. Chúa đi bên cạnh
chúng ta để hỗ trợ chúng ta. Chúa không bỏ rơi chúng ta. Người đồng hành với
chúng ta trong các sự kiện hiện sinh của chúng ta để giúp chúng ta khám phá ý
nghĩa của cuộc hành trình, ý nghĩa của cuộc sống hàng ngày, để khơi dậy lòng
can đảm trong thử thách và đau đớn. Giữa những giông tố cuộc đời, Thiên Chúa
luôn tìm đến với chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi những mối đe dọa.”[6] Vậy hãy trỗi dậy, Đức Kitô
đang chờ đợi, hãy lên đường và cùng đi với Ngài!
[1] Câu chuyện Hoa Đà “cạo
xương – chữa thuốc” cho Quan Vũ thời Tam Quốc.
[2] x.
Mark Falkenhair, Ơn gọi yêu thương,
Nguyễn Hoài Huy chuyển ngữ, (Hà Nội: NXB. Tôn Giáo, 2021), 76.
[3] Sứ điệp của các nghị viên
Tổng Công Hội XXVI Giai đoạn theo Giáo luật, số 5.
[4] Thần học đời tu, lưu hành nội bộ, 37.
[5] Sứ điệp của các nghị viên
Tổng Công Hội XXVI Giai đoạn theo Giáo luật, số 9.
[6]
ĐGH Phanxicô, Sống Tốt, Phương Đình
Toại chuyển ngữ, (Đồng Nai: NXB. Đồng Nai, 2022), 104.
Peter
Phạm Sinh
Thiên Chúa là tình yêu và
Ngài luôn trung tín trong tình yêu của Ngài (x. 2Tm 2,11-13). Vì yêu, Ngài đã
tạo dựng muôn loài và cho con người quản lý công trình Ngài sáng tạo (x. St
2,15), nhưng con người lại bất trung, phản nghịch lại với tình yêu của Thiên
Chúa (x. St 3,6-7). Dẫu thế, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương nhân loại. Quả
thật, trong suốt chiều dài lịch sử Cứu Độ, Thiên Chúa luôn trung thành với tình
yêu của Người. Và đỉnh cao của tình yêu đó chính là việc Người đã trao ban
chính Con Một để cứu độ nhân loại (x. Ga 3,16-17). Con Một Thiên Chúa là Chúa
Giêsu Kitô đã chịu chết để cứu độ nhân loại ngay khi họ còn là tội nhân, còn
thù nghịch với Người (x. Rm 5,6-11). Và khi được dìm vào trong cái chết của
Người, chúng ta cũng được mai táng với Người. Cũng như Chúa Giêsu Kitô đã được
sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha thì chúng ta cũng
được sống một đời sống mới nhờ sự chết và phục sinh vinh hiển của Người (x. Rm
6,4-5). Vì vậy, chính sự chết và sống lại của Chúa Giêsu là niềm vui và niềm hy
vọng của chúng ta. Để từ nay, những người tin vào Chúa Giêsu Kitô sẽ trở nên
công chính (x. Rm 3,22). Vậy chúng ta phải sống niềm hy vọng ấy như thế nào?
Với tâm tình và thái độ nào?
Sống trong niềm hy vọng
là sống niềm vui của sự biến đổi
Sau khi kết thúc năm Tập
viện với muôn ơn lành của Chúa, bản thân tôi đã nhận ra được niềm vui và hy
vọng Chúa ban cho tôi. Tôi hiểu rằng Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
Người đã yêu thương tôi từ thuở đời đời. Ngay khi tôi còn là tội nhân, sống xa
lìa tình thương của Người thì Chúa vẫn trung tín trong tình yêu của Người nơi
Đức Giêsu Kitô (x. Rm 5,6-11). Khi tôi còn mải mê với những tính toán cá nhân
và một lối sống chỉ quy về mình thì Chúa vẫn luôn yêu thương tôi và gọi tôi để
tôi được bước vào mối tương quan thân tình với Người. Khi nghiêm túc nhìn lại
hành trình cuộc đời của tôi dưới ánh sáng của Lời Chúa, tôi nhận ra rằng: Thiên
Chúa đã luôn yêu thương, quan phòng và đồng hành cùng tôi như một người cha,
người mẹ. Người luôn ân cần che chở và bao bọc tôi như Lời Chúa phán trong sách
ngôn sứ Hôsê rằng: “Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo
chúng. Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má” (Hs
11,4).
Cách cụ thể, tôi nhận ra
được sự hiện diện của Chúa ngang qua những điều tốt đẹp mà Người đã thực hiện
trong đời tôi. Tôi biết rằng Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời tôi, giống như
ĐTC Phanxicô đã nói: “Chúa Giêsu ở trong con, Người ở với con và không bao giờ
bỏ rơi con. Dù con có rời xa Người, Đấng Phục sinh vẫn ở bên con. Người kêu gọi
con và chờ đợi con bắt đầu lại.”[1] Quả thật, từ khi được làm dày thêm và
xác tín hơn về kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Phục sinh thì cuộc đời tôi có một khởi
đầu mới. Đó là khởi đầu của sự hoán cải và biến đổi tâm hồn. Từ khi nhận ra có
Chúa trong cuộc đời, tôi được cứu thoát khỏi sự u mê, lầm lạc của chính tôi
trước đây. Chính sự tăm tối bên trong của con người tôi mà trong một thời gian
dài, tôi sống hờ hững với tình yêu của Thiên Chúa dành cho tôi. Tuy mang danh
là Kitô hữu, nhưng tương quan giữa tôi với Chúa rất hời hợt và mong manh. Tôi
đã đến với Chúa như một thói quen và chỉ cố gắng không phạm luật. Nhưng ngay cả
điều đó, tôi cũng ít khi chu toàn. Dẫu thế, tôi vẫn xác tín rằng Thiên Chúa
luôn yêu thương, quan phòng và giúp tôi biến đổi nhờ tình yêu của Người. Thiên
Chúa đã dành cho tôi một hồng phúc lớn lao là được ở gần bên Chúa hơn trong năm
Tập Viện này. Trong năm hồng phúc này, tôi cũng được Chúa huấn luyện khi được
gần bên Chúa như các môn đệ xưa kia. Thật vậy, tôi được Chúa điều chỉnh những
bất tương hợp, những tinh thần xấu của cái tôi và hướng đến tinh thần tốt, tinh
thần của Thần Khí Thiên Chúa. Từ một người sống quy về mình, ích kỉ và thiếu
quan tâm đến người khác, qua sự trợ giúp của vị Tập sư và anh em, Chúa đã cho
tôi được biến đổi để biết sống quan tâm, yêu thương và xây dựng hơn.
Khi đón nhận niềm vui Phục
sinh, tôi dần thay đổi những giá trị trước đây tôi vẫn tìm kiếm. Giờ đây, những
giá trị của thế gian được thay thế bằng những giá trị của Tin Mừng. Trước đây,
tôi dành nhiều thời gian và công sức vào những thứ chóng qua của trần gian này
để khỏa lấp những khát vọng ở trong tôi. Tuy nhiên, nhờ ơn Chúa, tôi nhận ra
rằng chỉ khi chọn Chúa Kitô là trung tâm, là nền tảng của đời sống tôi, tôi mới
có hạnh phúc thật. Từ đó, tôi cũng ý thức hơn về việc sống tinh thần của Hiến
pháp số 41: “Mặc lấy con người mới, được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Kitô
chịu đóng đinh và sống lại từ cõi chết, hầu thanh luyện các động cơ của mình
trong việc phán đoàn và hành động”.
Từ một con người khao khát
ước muốn quá nhiều thứ để đảm bảo cho sự an toàn hạnh phúc của bản thân, và phủ
lấp những khoảng trống trong tâm hồn, tôi được huấn luyện và biết được rằng ngoài
Chúa ra, tôi không thể tìm đâu được hạnh phúc (x. Tv 16,2). Bởi vì ngoài Chúa,
không có thực tại nào trên trần gian này có thể khỏa lấp được những khao khát
sâu thẳm nhất của tâm hồn tôi. Tôi nhận ra rằng chính Chúa đã khắc
sâu trong tôi lòng khao khát tìm kiếm Chúa và chỉ có ở nơi Người, tôi mới gặp
được chân lý và hạnh phúc đích thật.[2]
Sống niềm hy vọng là sống
dồi dào trong tâm tình tạ ơn
Có thể nói, người sống
trong niềm hy vọng là sống trong sự phó thác vào tình yêu của Thiên Chúa. Vì
thế, khi chấp nhận bản thân với những yếu đuối, bất toàn của mình, họ biết luôn
tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và sự đổi mới trong Ngài, bởi vì họ
biết rằng Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương họ ngay khi họ là người tội lỗi,
bất toàn… (x. Rm 5,6-11). Ngay khi tin tưởng và xác tín như vậy, tôi
thấy mình sống hạnh phúc và tràn đầy hơn. Bởi vì, tôi biết mình thật
sự được yêu thương và thật quý giá trước mặt Cha trên trời (x. Is 43,4). Và Lời
Chúa như khẳng định với tôi rằng: Chúa yêu thương và dành riêng cho tôi một vị
trí đặc biệt trong trái tim của Người:“Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn
tay Ta” (Is 49,16).
Một cách cụ thể, ngang qua
sự Phục sinh của Đức Kitô, tôi đã cảm nghiệm được một niềm vui, một
niềm hạnh phúc lớn lao khi được chính Chúa mời gọi cộng tác vào công trình cứu
chuộc của Người. Thật thế, sống niềm hy vọng cũng chính là đón nhận và sống
niềm vui Phục sinh, để rồi ra đi chia sẻ tin vui Phục sinh cho người khác.
Thánh Phaolô tông đồ cũng đã xác quyết rằng còn vinh quang nào lớn hơn cho con
người hơn là được làm cộng sự viên của Thiên Chúa (x. 1Cr 3,9). Sự
cộng tác đó trước tiên là sống trong tâm tình làm con thảo đối với Thiên Chúa,
đón nhận và thờ phượng Người là Cha, luôn ý thức về việc sống và xây dựng mối
tương quan thân tình với Thiên Chúa Ba Ngôi. Thứ đến, tôi hiểu rằng sự cộng tác
đó làm cho tôi trở nên như những người trợ giúp, những người đồng hành và những
thừa tác viên của Chúa Kitô trong công trình vĩ đại của Ngài (x. HP 2). Chính
sự cộng này là cách thức tôi đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy
theo Thầy” (Ga 21,19b).
Thêm vào đó, niềm hy vọng vào Chúa Phục sinh cũng giúp tôi luôn ý thức rằng trên cuộc lữ hành trần gian, tôi luôn có sự đồng hành của Người. Người luôn hiện diện và giúp sức cho tôi trong những thách đố của cuộc sống. Thật thế, có những khó khăn trong cuộc đời và trong sự yếu đuối của bản thân khiến nhiều lúc tôi như muốn ngã gục. Tuy nhiên, nhờ ơn Chúa, tôi vẫn đứng vững. Lời của Chúa Giêsu nói cùng các tông đồ năm xưa cũng như đang nói với tôi hôm nay: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Tôi hiểu rằng Lời Chúa là nguồn trợ lực, thêm sức cho tôi trên đường đời. Vì vậy, dù có những khó khăn, thách đố trên bước đường theo Chúa, tôi vẫn luôn thấy bình an vì Chúa luôn hiện diện và đồng hành với tôi.
Chính vì thế, niềm hy vọng
vào Chúa Giêsu Phục sinh đã cho tôi một niềm vui, hạnh phúc lớn lao mà không có
gì có thể thay thế được. Bởi vì, khi được đụng chạm, gặp gỡ Chúa Phục Sinh thì
cuộc sống của tôi có ý nghĩa và đầy tràn hơn. Từ tình trạng nô lệ cho tội lỗi
và sự chết, tôi được cứu thoát, được tự do nhờ cái chết và phục sinh của Con
Thiên Chúa (x. Rm 8,2). Và bây giờ, Ngài đang sống, đang hiện diện và đang làm
chủ thế giới này. Quả thật, “Ngài đang sống, sống như một vị Chúa, nghĩa là
điều khiển sinh mạng của tất cả vũ trụ và lịch sử, nhưng Ngài muốn điều khiển
trong sự tự do đón nhận của những kẻ tin vào Ngài”.[3] Đó là Tin Mừng trọng đại mà tôi được
đón nhận từ Thiên Chúa. Từ khi đón nhận Tin Mừng đó, cuộc đời tôi như có một
khởi đầu mới, một chân trời mới, một hướng đi mới với một quyết định dứt khoát.[4] Đó là theo Chúa Kitô Cứu Thế để loan
báo Tin Mừng cho người nghèo khó theo linh đạo và đặc sủng của
DCCT. Chính khi xác tín như vậy, lòng khao khát dấn thân của tôi cũng
mạnh mẽ hơn để bước theo Chúa Cứu Thế. Lời cha nguyên Bề trên tổng quyền Joseph
Tobin nhắn nhủ các tu sĩ thừa sai DCCT cũng đã đánh động tôi rất nhiều: “Đừng
sợ, và hãy nhớ rằng thế giới này đang đòi hỏi nơi chúng ta một sự dấn thân và
xác tín hơn. Chính chất lượng của sự dấn thân tông đồ cho Chúa Cứu Thế sẽ hình
thành cách thế chúng ta sống đặc sủng đã được tin tưởng trao cho chúng ta”.[5]
Sống niềm hy vọng là sống
nguyên lý xuất hành
Những ngày tháng ở Tập Viện
đã giúp tôi hiểu được rằng từ tình trạng sống không có định hướng, xa lìa tình
thương của Chúa, tôi vẫn được Chúa yêu thương và đưa về với mối tương quan thân
tình với Người. Quả thật, trước đây tôi thích sống cô độc và thường quy hướng
về mình. Tuy nhiên, khi nhận ra tình thương của Chúa, tôi ý thức rằng trên hành
trình cuộc đời của tôi, Chúa luôn đồng hành với tôi. Cách cụ thể, Ngài đang
hiện diện hằng ngày trong Bí tích Thánh Thể, trong Lời của Ngài, trong những
biến cố thường ngày của đời sống tôi.
Và bây giờ, Ngài mời gọi
tôi vào Dòng Thánh này để cùng đi với Ngài trong hành trình đem Tin Mừng đến
cho muôn dân. Quả thật, đó là một hồng phúc, một vinh dự lớn lao mà
Chúa Cứu Thế đã dành cho tôi. Trong sâu thẳm của tâm hồn, tôi muốn đáp lại
tiếng Chúa mời gọi với con tim tràn đầy niềm vui và hạnh phúc. Như lời của Đức
Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã nói: “Ai khám phá ra Chúa Kitô thì phải dẫn đưa kẻ
khác đến với Người. Người ta không thể giữ cho mình một niềm vui to lớn, nhưng
cần phải thông truyền niềm vui đó”[6]. Cũng vậy, việc khám phá ra Chúa Kitô là
niềm vui lớn lao, hạnh phúc nhất của cuộc đời tôi và tôi cần đem Người đến với
những người mà tôi được sai đến.
Tuy nhiên, để xuất hành và
loan truyền niềm vui có Chúa, tôi cần phải ra khỏi mình, ra khỏi vùng an toàn
mà chính tôi đã thiết lập, ra khỏi sự ù lì, lưỡng lự, thiếu tự tin của
tôi. Tôi hiểu rằng, dẫu có Chúa ở trong đời tôi, nhưng con người cũ trong
tôi vẫn còn đó. Trong tôi vẫn còn nhiều khiếm khuyết và bất toàn, chúng lắm lúc
kéo ghì tôi xuống. Vậy nên, tôi cần ý thức về sự hoán cải liên tục và tận căn
(x. HP 41) và biết chọn Chúa Kitô làm trung tâm của đời sống tôi (x. HP 23), và
luôn tín thác vào sự quan phòng của Chúa.
Thêm vào đó, để dấn thân theo Chúa Cứu Thế, tôi cần luôn ý thức về sự hiện diện
của Chúa Thánh Thần và sự thúc đẩy của Ngài từ bên trong (x. HP 25), cùng với
sự bảo trợ của Mẹ Maria. Trong cuộc lữ hành đức tin này, tôi tin Mẹ luôn tiến
bước cùng tôi (x. HP 32), cùng với sự cầu bầu của thánh tổ phụ
Anphongsô, các thánh, các chân phúc trong Dòng. Và cùng đi với tôi, luôn có anh
em đồng hành và giúp sức. Vậy nên, tôi không bao giờ đơn độc trên hành trình
theo Chúa.
[1] ĐTC Phanxicô, Tông huấn Christus
vivit, Nguyễn Anh Tuấn chuyển ngữ (Hà Nội: NXB: Tôn giáo, 2019), số 2.
[2] x. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Sách
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (Hà Nội: NXB. Tôn giáo, 2012), số 27.
[3] Nguyễn Thế Thuấn, "Kerygma – Lời
rao giảng tiên khởi," (Lưu hành nội bộ), 365.
[4] x. ĐGH Bênêđictô XVI, Thông điệp Deus
Caritas Est, số 1.
[5] Joseph Tobin, Communicanda 2 (2006),
2.
[6] ĐGH Bênêđictô XVI, Thánh Lễ bế mạc ngày Quốc tế Giới Trẻ (Cologne, 21/8/2005).